Chương 6: Cỏ xanh sương phủ trắng II

Gió mùa đông nam từ ngoài biển thổi vào mang theo hơi ẩm oi bức, vượt ngàn dặm từ nam lên bắc, lúc đến được đế đô thì đã ráo hoảnh, phả vào mặt ran rát, cũng chẳng đem lại được chút mưa dông mát mẻ nào. Dân kinh kỳ gọi loại gió này là gió phơn. Cùng với gió phơn, mùa hè khắc nghiệt của Thiên Khải bắt đầu.

Nhóm Hải Thị hướng nam vượt núi dãy Minh Lạc, còn chưa kịp thấy đường nét thành quách Thiên Khải trong khói bụi, cửa đèo Kỳ Việt đã cuồn cuộn nổi gió.

"Thời tiết năm nay lạ thật, trong gió này thế mà lại có hơi nước." Hải Thị không khỏi hít sâu một hơi, đồng thời kiềm chế vật cưỡi dưới thân đang nhảy chồm muốn hí.

Phù Nghĩa cười bảo: "Nào có, chỉ là gió phơn bình thường thôi, năm nay có khi còn hanh hơn năm trước ấy chứ."

"Nhưng mà…" Hải Thị tỏ vẻ nghi ngờ. Gió kia tuy không thể nói là mát mẻ nhưng quả thật có ngậm hơi nước, thổi hây hẩy lên làn da tiếp xúc với gió cát lâu dài của họ, cảm giác lỗ chân lông khắp người đều nở ra đôm đốp.

"Bọn ta là người Hoàng Tuyền Quan, dạng gió phơn nào ở Đông Lục đối với bọn ta cũng đều ẩm ướt dễ chịu hết. Phương đại nhân xuất thân đế đô nhỉ? Vậy thì đỡ hơn chút. Binh sĩ các quận ven biển vừa tới trú đóng đã hết chảy máu cam lại tới da nứt nẻ, thế nào cũng phải qua nửa năm một năm mới khá lên được." Thang Càn Tự quay đầu lại, nhướng mày.

"Quê cha mạt tướng ở ven biển quận Lâm Kiệt, có điều mạt tướng lớn lên ở đế đô." Hải Thị kính cẩn đáp.

Trong lúc nói chuyện đã đi qua cửa đèo, đến con đường đổ dốc, ngựa nhẹ nhàng chạy bước nhỏ, Hải Thị cẩn thận điều khiển ngựa, khẽ thốt một tiếng thán phục. Cửa đèo cách Thừa Tắc Môn còn hai mươi dặm đường, phóng mắt nhìn xuống đã có thể thấy một dòng nhân mã và cờ xí lớn đang chậm rãi vòng qua tường quách tập kết ngoài Thừa Tắc Môn, đó chính là thao trường tam đại doanh duyệt binh trước khi thay quân xuất phát vào mùa hè năm ngoái.

Đội quân kia cờ đỏ giáp đỏ, huấn luyện nghiêm chỉnh, mỗi hai ngàn năm trăm người đến nơi lập tức xếp thành trận vuông ngang dọc mỗi chiều năm mươi người, mỗi trận cách nhau ba trượng, chỉ huy bằng cờ lệnh, hàng ngũ chỉnh tề, đứng ngồi xoay hướng rất có trật tự. Ngay từ đầu đã có sẵn mười mấy trận, nhân mã vẫn ùn ùn không dứt từ phía nam vòng qua thành tới, đồ sộ hùng tráng.

Bên cạnh cờ rồng và cờ Cận Kỳ Doanh, trên thành còn treo tinh kỳ đỏ thắm, đó là cờ của Thành Thành Doanh trú đóng Quân Quan.

"Bị đám khỉ bên Quân Quan giành trước rồi." Thang Càn Tự lắc đầu, nói với chư tham tướng sau lưng." Chúng ta tạm dừng chỉnh đốn đội hình cho gọn gàng đã, chớ để bọn khỉ kia chê cười."

Hải Thị quay lại nhìn. Gió phơn vừa qua, mắt thấy thảm xanh mướt trải rộng khắp núi đã khô thành màu vàng kim xán lạn hoang liêu, trên đường núi quanh co, đội ngũ áo giáp xanh chàm như một dòng sông chảy xiết trong đó. Lệnh cho ti kỳ truyền lời xuống, sau lưng tức khắc trào lên làn sóng hô ứng hùng hồn, càng truyền càng xa, vang vọng ra hẳn dăm ba dặm bên ngoài.

Cứ đến mùa hè hằng năm, trên quan lại thay quân, lính cũ rút từ tam đại doanh về đều cần quay lại đế đô duyệt binh, theo lệ tập kết ở thao trường Thừa Tắc Môn nghe tuyên chiếu, chủ soái các doanh cũng cần vào triều yết kiến báo cáo. Đằng sau họ hiện giờ cũng dẫn bốn vạn nhân mã.

Dưới núi bốc khói, một người cưỡi ngựa hiên ngang đi lên, dần trông rõ được mặt mũi dáng hình. Hải Thị phóng ngựa ra khỏi hàng ngũ, vẫy tay gọi: "Trạc Anh, Trạc Anh!"

Tiếng hô vừa dứt, Trạc Anh đã tới bên cạnh, bận y phục gọn nhẹ màu huyền, không đội mão võ, đeo trường cung, hẳn là nghe nói binh mã tam doanh thay quân trở về đã đến Thừa Tắc Môn nên cưỡi ngựa từ thao trường cấm quân chạy thẳng tới cửa đèo. Mắt mày sâu đậm tuấn tú của Trạc Anh ngập tràn nét cười, nhìn nàng một lát, nói: "Toi rồi, người chẳng cao lên tí nào cả, còn bị gió thổi cho cả mặt toàn nếp nhăn thế này."

Đường nét tướng mạo sâu hút cao thẳng, nếu là tóc vàng mắt xanh thì rành rành là dáng dấp tộc Man, nhưng trời sinh mắt mày cậu đen láy, sống lâu ở Đông Lục, người ta chỉ nói là một chàng trai đặc biệt khôi ngô mà thôi. Hải Thị nhất thời nói không nên lời, chỉ quan sát Trạc Anh một lượt từ trên xuống dưới, bỗng ngạc nhiên hỏi: "Huynh từ thiên kị lên vạn kị lúc nào thế?", còn trỏ vào lệnh bài đeo bên hông Trạc Anh, hoa văn sô ngu (*) nạm vàng, tua tím, rõ ràng là phù sức của võ quan vạn kị.

Phẩm vị võ quan Vũ Lâm Cấm Vệ vốn cao hơn hai bậc so với võ quan phổ thông ngang hàng, vạn kị trong Vũ Lâm tương đương chính tam vị, chỉ hạn chế trong chủ soái Vũ Lâm và bốn vạn kị trưởng, cũng cùng cấp bậc với chủ soái Hoàng Tuyền Doanh Thang Càn Tự.

(*) Một loại thần thú trong thần thoại cổ Trung Quốc, được miêu tả là thân hổ đầu nghê, lông trắng vằn đen, đuôi rất dài.

Trạc Anh chỉ cười không đáp, cởi móc cài trên vai trái ra, gỡ một cái nậm hình trăng non dưới sườn xuống đưa qua. Nậm rượu mỏng vừa khéo sát thân, náu mình dưới sườn, nếu phủ thêm áo giáp áo khoác thì chẳng tìm được dấu vết nào. Hải Thị nhận lấy uống một hớp, sảng khoái quệt miệng, cười khen: "Đúng là túy cuồng, may có cái nậm rượu hay ho không lộ dấu tích này, đi đâu cũng có rượu ngon uống."

"Nghĩa phụ giữ lại một vò Tam Hoa Nhưỡng, muội không trở lại cha không chịu mở, cuối cùng cũng ngóng được tới ngày hôm nay." Con ngươi đen láy ánh kim của Trạc Anh ấm áp nhìn Hải Thị.

Hải Thị buông một tiếng thở dài khẽ đến không nghe thấy. Từ đầu đến cuối, cái người vĩnh viễn như cười như không ấy chỉ coi nàng là một đứa con trai. Nghĩ vậy, trên mặt bất giác lộ vẻ hiu quạnh.

Trạc Anh thúc ngựa xáp lại, thò tay vò đầu nàng. "Ta nhờ Chá Lựu bên Chức Tạo Phường may một bộ thường phục mới cho muội, cất trên giường muội rồi, về mặc thử xem."

"Muội không phải trẻ con." Hải Thị cười gượng, cụp rèm mi xuống, thần sắc rầu rầu.

Trạc Anh cười: "Tối nay ta và nghĩa phụ đều phải luân phiên trực ở Kim Thành Cung không thoát thân được, muội về Tễ Phong Quán nghỉ ngơi một đêm trước, mai tẩy trần bù cho muội sau." Dứt lời liền đánh ngựa đi xuống núi.

Hải Thị buồn bã nhìn bóng dáng Trạc Anh biến mất trong khói cỏ, bỗng cảm nhận có điều khác thường, đưa mắt đảo qua, thấy Phù Nghĩa đang lộn ngược về, ánh mắt sáng quắc nhìn chằm chằm vào Trạc Anh thoăn thoắt lướt qua bên cạnh y. Nàng biết ánh mắt đó, hệt như con cá chép đỏ quanh đình thủy tạ ở Tễ Phong Quán, nằm dưới lá sen, theo dõi chuồn chuồn đậu trên cạn.

Hải Thị thu tầm mắt, che giấu vẻ hoảng sợ – Trên đường núi Bì La, Phù Nghĩa cũng từng trông thấy Tả Bồ Đôn vương mới của Hộc Khố. Ánh mắt chằm chặp đó của Phù Nghĩa cũng không dấu vết chuyển nhạt, gương mặt đen thui một màu, không nhìn ra biểu cảm.

Hoàng Tuyền Doanh đóng quân bên ngoài Thừa Tắc Môn không đến nửa giờ, Vũ Uy Doanh cũng từ Mạc Hột Quan quay về, tam đại doanh tụ họp dưới thành nghe tuyên chiếu. Như thường lệ, trong bốn vạn nhân mã mỗi doanh cắt cử một tham tướng và hai vạn tinh binh ở lại bổ sung cho Cận Kỳ Doanh, còn lại cởi giáp về quê. Tham tướng Hoàng Tuyền sáp nhập vào Cận Kỳ Doanh là tham tướng Phù Nghĩa tuổi gần ngũ tuần.

Trong cung truyền lời, sáng mai chủ tướng tam đại doanh vào triều báo cáo, ngoài ra tuyên tham tướng Phương Hải Thị của Hoàng Tuyền Doanh vào yết kiến cùng.

Ban đêm, Hải Thị xin nghỉ trở về Tễ Phong Quán.

Thiên Hưởng năm thứ ba, Đế Húc ban Chiêu Minh Cung, nơi ở của người chú thứ ba của tiên đế Đế Húc, cho tổng quản Phượng Đình nội cung Phương Chư cư trú. Chiêu Minh Cung bỏ tên, được đặt lại thành Tễ Phong Quán, biểu thị khác với hoàng tộc, con nuôi nô bộc của Phương Chư cũng được cho phép sống ở đây, còn được ban đặc quyền cưỡi ngựa trong cung.

Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenhay.pro.vn để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!