Một
Theo dân gian, mười lăm tháng bảy âm lịch là tiết vong linh, Đạo gia gọi là Tết Trung Nguyên, còn Phật giáo lại gọi là "Lễ Vu Lan". Nhưngtrên thực tế, trên thế gian này lấy đâu ra cái bồn theo đúng nghĩa bồnvu lan. Từ này bắt nguồn từ Phật giáo, trong tiếng Phạn đọc là vu lanbồn, nghĩa đen của nó là giải cứu treo ngược, còn hiểu rộng ra thì cónghĩa là giải cứu lũ quỷ đói dưới địa ngục khỏi nỗi thống khổ bị treongược.
Vào ngày mười lăm tháng bảy âm lịch, các tín đồ mở đàn tràng, thả đèn hoa đăng, tôn vinh tăng chúng thập phương.
Đến thời cận đại (1), tiết vong linh đã bị đơn giản hóa, chỉ còn giữ lại nghi thức hoá vàng mã và thả đèn hoa đăng. Hoá vàng mã có nghĩa làđốt tiền vàng mã cho tổ tiên nhà mình, đồng thời còn đốt thêm một chúttiền giấy cho cô hồn dã quỷ. Còn thả đèn hoa đăng chủ yếu là để giải cứu đám cô hồn dã quỷ, là việc thiện có thể tích âm đức. Người ta gấp giấy thành hình hoa sen, dưới đáy bôi sáp chống thấm nước, bên trên cắm mộtngọn nến.
Đến đêm ngày mười lăm tháng bảy âm lịch, người ta đốt ngọn nến rồi thả cho đèn trôi xuôi theo dòng sông. Theo tương truyền, toàn bộvong hồn đều có thể được đèn hoa đăng siêu độ, thoát khỏi bể khổ vô bờ. Tuy nhiên, nếu đèn hoa đăng do chính tay mình làm thì không có tác dụnggì, phải mua những cây đèn do hòa thượng ở trong các chùa miếu làm thìmới được. Khi thiện nam tín nữ bỏ tiền mua đèn hoa đăng cũng không thểnói là 'mua', mà phải nói là 'quyên'. Không thiếu những người lắm tiềnnhiều của cúng thẳng một khoản tiền vào trong chùa chiền, quy đổi thànhsố đèn hoa đăng nhất định, đến lúc cần thả đèn hoa đăng sẽ do tăng nhânthay mình thực hiện. Có nhiều tiền quyên nhiều, ít tiền quyên ít, bờidẫu sao mỗi một chiếc đèn hoa đăng cũng có thể siêu độ được một con quỷđói. Bất kể là đèn nhiều hay ít, chỉ cần có lòng làm việc thiện là được, bời vậy dân gian mới có câu "Người giàu vạn ngọn đèn, người nghèo mộtngọn đèn". Thời xưa, mỗi khi đến tiết vong linh, cứ nơi nào trong thànhcó nước là sẽ có vô số đèn hoa đăng, tạo thành cảnh tượng giống như muôn vì sao sáng. Người ta còn mời tăng ni đạo sĩ tụng kinh niệm chú, némmàn thầu cúng cô hồn, lại còn dựng đài Thí Cô (bố thí cho trẻ mồ côi), mở đủ các loại pháp đàn trên bờ dưới nước, cực kỳ náo nhiệt. Nơi nàokhông có nước thì chỉ cúng cô hồn hoá tiền vàng mã. Những người nàokhông phải ra ngoài hoá vàng mã và thả đèn hoa đăng thì phần lớn sẽ vềnhà sớm. Trời vừa mới chập choạng tối đã đóng cửa, không bước chân rakhỏi nhà, bởi dù sao vào ngày mười lăm tháng bảy âm lịch cũng chính làngày cửa địa ngục mở toang. Những gia đình bình thường, nếu không cóchuyện gì khẩn cấp không hoãn lại được thì chẳng ai dám ra khỏi nhà vàolúc nửa đêm.
(1) Từ giữa thế kỷ 19 đến năm 1919.
Thời trước, cứ đến ngày mười lăm tháng bảy âm lịch, đội tuần sônglại phải đi hóa vàng mã dưới chân từng cây cầu một. Từ năm 1949 trở vềsau, phong tục đã thay đổi, hoá vàng mã thả đèn hoa đăng bị liệt vàophong tục cổ hủ mê tín còn rơi rớt lại từ thời phong kiến, người ta cấmtuyệt đối. Thậm chí, Tết âm lịch năm 1945 còn không cho đốt pháo nổ, bảo rằng làm vậy là để phòng ngừa có phần tử phản động lợi dụng tiếng pháonổ để nổ mìn tiến hành phá hoại, đúng là suy nghĩ thiển cận.
Nhưng quanniệm và phong tục đã kéo dài cả trăm ngàn năm thì không thể nào chuyểnbiến chỉ trong một chốc một lát. Buổi tối ba mươi Tết năm ấy thành ra im lìm vắng lặng, không có lấy một chút không khí mừng năm mới. Nhưng đếnmười hai giờ đêm, chẳng biết nhà nào đã mở đầu, đột nhiên tiếng pháo nổđùng đùng tạch tạch nổi lên. Đã có nhà dám phá vỡ lệnh cấm, những nhàkhác lập tức đua nhau đốt theo, sau đó toàn thành đều đốt, không khí của lễ mừng năm mới lập tức sống dậy. Sang năm sau, lệnh cấm đốt pháo đãtrở thành thùng rỗng kêu to. Nhưng những tục lệ mê tín như hoá vàng mã, thả đèn hoa đăng, mở đàn tràng, vào thập niên năm mươi sáu mươi quả thật là không thấy diễn ra trong nội thành.
Dù trong nội thành không thể hoá vàng mã, nhưng ở nông thôn và vùngngoại thành hoang vu thì lại chẳng có mấy ai ngó ngàng tới. Nông thônvẫn chôn cất theo hình thức thổ táng, cứ đến thanh minh đông chí làngười đi tảo mộ hoá vàng vẫn nườm nượp như xưa. Ngay cả những người sống trong nội thành cũng đến vùng ngoại thành hoá vàng mã. Chúng ta đangnói về ngày mười lăm tháng bảy âm lịch năm 1958. Lúc bấy giờ có mộtchàng trai tên là Vương Khổ Oa(2), tầm hai mươi bảy hai mươi tám tuổi, con nhà cùng khổ.
Nông dân không được đặt tên, anh ta họ Vương, tên mụlà Khổ Oa, bởi vậy lúc đăng ký hộ khẩu đã khai đại là Vương Khổ Oa, quêquán ở Quan Trung, trước đó vài năm đã chạy đến Thiên Tân bốc vác thanđá kiếm miếng ăn. Khi ấy có không ít người ở nhà tầng, mùa đông phải đốt than đá để sưởi ấm. Những người bán than không những phải kéo xe chởthan đá đến tận chân cầu thang, mà còn phải chất than vào giỏ rồi cõngtừng giỏ một lên trên tầng. Cõng đến cửa nhà người ta, lại phải xếp gọnvào một chỗ ở ngoài hành lang. Kiếm sống bằng công việc này vừa bẩn vừacực nhọc, không dễ chịu một chút nào. Mẹ Vương Khổ Oa theo đạo Phật, ănchay trường, chú trọng tích đức làm việc thiện, bởi vì đi lại khôngtiện, rằm tháng bảy năm nào cũng sai Vương Khổ Oa thay mặt bà ta đi hoávàng mã, siêu độ cô hồn dã quỷ, làm như vậy là để tích âm đức. Năm ấycũng không ngoại lệ, bà ta lại sai Vương Khổ Oa đi hoá vàng mã.
(2)Khổ Oa: đứa trẻ mệnh khổ
Vương Khổ Oa cực kỳ bối rối. Từ khi giải phóng đến bấy giờ, người ta đã không cho hoá vàng mã nữa rồi. Năm ngoái, khi đi hóa vàng mã, thiếu chút nữa là anh ta đã bị tóm sống, năm nay sao còn dám đi tiếp? Nhưngmẹ anh ta là một bà lão nông dân mê tín đến u mê, nhất định bắt anh taphải đi, tiền vàng đã chuẩn bị sẵn cả rồi. Anh ta không thể nào thoáithác, đến nửa đêm ngày mười lăm tháng bảy âm lịch không thể không rakhỏi nhà đi hoá vàng mã.
Anh ta lo canh cánh bị người khác nhìn thấy sẽđi tố cáo, nên định tìm đến một nơi vắng vẻ. Anh ta sống ở gần khu vựcnhà ga phía bắc và Ninh Viên. Lúc bấy giờ, phía bắc Ninh Viên còn có một con kênh phân lũ, là một con kênh nhân tạo được đào vào thời nhà Thanh. Trời khô hạn không có nước, cỏ dại mọc um tùm dưới lòng sông, qua consông nhân tạo này là đến một vùng đất hoang, xa hơn nữa là đất bị nhiễmmặn và rừng cỏ lau, xét theo địa hình thì chỗ đó là một góc chết. Vàothời Đạo Quang nhà Thanh vẫn còn có mấy hộ gia đình cư trú ở nơi nàytrồng cao lương. Sau này, họ đã dọn đi hết. Vắng khói thiếu rơm(3), khuvực này thường xuyên có hồ ly và nhím hoạt động, cho dù ban ngày cũngkhông có lấy một bóng người. Anh ta là một kẻ đầu óc đơn giản sức khỏecó thừa, không biết sợ là cái gì, một mình ôm buộc vàng mã lội qua sôngnhân tạo, đi sang vùng đất hoang vu bên bờ bên kia, định hoá vàng mã ởbên đó. Anh ta là người ở nơi khác đến, chỉ nghe nói ở khu vực này cóngười sinh sống có nhà cửa, nhưng do đất bị nhiễm mặn, không trồng đượchoa mầu, nên vào thời Quang Tự, toàn bộ các gia đình đó đã chuyển đi nơi khác sinh sống. Còn những chuyện khác, anh ta không hay biết gì. Giữanửa đêm ngày mười lăm, trăng sáng vằng vặc, anh ta chợt thấy một ngôimiếu đổ nát thấp thoáng trong đám cỏ hoang, một bên chái miếu đã bịsập. Gió hiu hiu thổi, cỏ dại mọc trên mái hiên đung đưa dưới ánh trăng. Trên tấm bia đá bên cạnh miếu có ba chữ rất lớn nhưng anh ta chỉ đọcđược chữ 'tam'. Sau miếu là một cái hủng, quan tài nằm ngổn ngang lộnxộn khắp nơi.
(3)Ý muốn nói không có người sinh sống và trồng trọt
Hai
Trước mỗi quan tài có một viên gạch cổ được đánh số. Lúc mới giảiphóng, nông dân hoàn toàn mù chữ, Vương Khổ Oa chỉ nhận biết được sốkhông biết chữ, nhưng như vậy đã là khá lắm rồi, bởi vì lúc giao thanphải xem biển số nhà, không đọc được số sẽ không giao đúng nhà. Anh tanhìn thấy trong cái miếu đổ nát thờ phụng ba pho tượng thần, nhưngkhông phải là Tam Tinh Phúc Lộc Thọ, cũng không phải là Tam Thanh Đạogiáo(4).
Vị tướng quân ngồi bệ vệ ngay chính giữa có tướng mạo hiềnlành, mang khí thế vương giả, lưng đeo song kiếm. Một tướng quân mặt đen và một tướng quân mặt đỏ chia nhau đứng hai bên, vẻ mặt hung dữ rấtđáng sợ. Tướng quân mặt đen cầm xà mâu, tướng quân mặt đỏ cầm Yển Nguyệt Đao. Vậy là đã rõ, đây là một ngôi miếu Tam Nghĩa, chuyên thờ phụng bavị anh hùng kết nghĩa vườn đào Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi. Mặc dù nôngdân mù chữ, nhưng nhắc tới Lưu Quan Trương thì không ai là không biết. Bên dưới cái hủng lớn sau ngôi miếu Tam Nghĩa cỏ hoang mọc um tùm, quantài nằm bừa bãi khắp mọi nơi.
(4) Ngọc Thanh Nguyên Thủy Thiên Tôn, Thượng Thanh Linh Bảo Thiên Tôn và Thái Thanh Đạo Đức Thiên Tôn cũng chính là Thái Thượng Lão Quân.
Dưới cái hủng lớn có rất nhiều huyệt mộ đã bị đào bới, dãy nọ nốitiếp dãy kia. Trong mỗi huyệt mộ đều có một hoặc hai cái quan tài, nhưng chẳng có cái nào thuộc loại tốt, tất cả đều là những chiếc quan tàimỏng sơ sài bằng gỗ bách, thời gian hạ táng cũng không giống nhau, phầnlớn đều nhỏ hẹp. Do dãi nắng dầm mưa quá lâu, thành quan tài hầu như đãmục nát, thậm chí còn có cả lỗ thủng, nhở ánh trăng có thể nhìn thấyxương trắng ở bên trong. Còn có hai con chó hoang đang chầu chực ở đằngxa.
Vương Khổ Oa đã sợ đến mức không còn thấy sợ nữa, thậm chí tronglòng còn rất bức bối, rõ ràng sau miếu là một khu nghĩa địa, tại saoquan tài lại bị đào bới hết lên rồi bỏ mặc ở nơi này không có ai quantâm tới? Kỳ quái nhất là trước mộ phần không có bia, chỉ cắm một viêngạch xanh theo chiều thẳng đứng đằng trước quan tài, một nửa viên gạchchôn dưới đất, nửa bên trên được viết số bằng sơn, giống như cố tìnhđánh số thứ tự cho quan tài vậy. Là người có đầu óc đơn giản, anh tathấy nơi đó là một nghĩa trang, bèn có ý nghĩ hoá vàng mã mà chẳng làđốt, chẳng bằng đốt luôn cho cô hồn dã quỷ dưới khu mộ trũng này, tranhthủ lúc không có người đốt cho nhanh, đốt xong còn về nhà ngủ.
Vương Khổ Oa không hiểu tại sao dưới khu mộ trũng này lại có rấtnhiều quan tài, nhưng tôi thì lại được kể cho nghe rõ ngọn ngành. Muốnbiết rõ đầu đuôi, chúng ta phải quay lại thời kỳ trước giải phóng. Trước đây, Thiên Tân vệ có hai Lý, là hai vị có tiền có thế cùng mang họ Lý. Mặc dù cùng một họ, nhưng hai người lại không có bất cứ quan hệ gì, bởingười họ Lý đâu có ít, Trương Vương Lý Triệu nơi đâu mà chẳng có, Lý lại là đệ nhất thế gia vọng tộc.
Một trong hai Lý của Thiên Tân vệ là ĐốcQuân Lý Thuần, chính là người đã phá vương phủ xây từ đường nhà họ Lý, phần đầu truyện đã đề cập đến chuyện của ông này. Lý còn lại tên là LýDiên Chương, là nhân vật trong Thanh Bang, trước kia cũng đã từng là một phu khuân vác thuê, giúp người ta khuân đồ lên thuyền kiếm miếng cơmmanh áo. Có một lần, có một ông khách người Sơn Tây ra tỉnh ngoài buônbán, bôn ba vất vả kinh doanh nhiều năm, tích cóp đầy một cặp da vàngbạc đồ quý. Trên đường mang tiền của về nhà, ông khách này đã lên thuyền của Lý Diên Chương, đến lúc xuống thuyền thì không tìm thấy chiếc cặpda đâu nữa. Bởi vì đã nhận ra chiếc cặp da có chứa vàng bạc đồ quý ở bên trong, Lý Diên Chương chẳng khác gì ruồi nhặng ngửi thấy mùi máu. Nhâncơ hội ông khách kia mất cảnh giác, hắn ta đã âm thầm đánh cắp chiêc cặp da rồi giấu biệt. Đến lúc về gần đến nơi, ông khách người Sơn Tây mớiphát hiện ra chiếc cặp đã bị mất cắp, lập tức lửa giận công tâm, há mồmphun ra máu tươi. Ông khách đó báo quan không đường, xin giúp đỡ khôngcửa, nhất thời phẫn uất tìm đến cái chết, nhảy cầu tự vẫn.
Bởi đánh cắp được số vật báu trong cặp da của ông khách Sơn Tây, từđó về sau Lý Diên Chương phất lên nhanh chóng. Hắn ta mua một giấy phép"Long Phiếu" để hành nghề khuân vác thuê, tiến hành bóc lột sức lao động của phu khuân vác trên sông đào bằng rất nhiều con đường. Bởi hắn cótrong tay Long Phiếu là loại giấy phép hành nghề khuân vác thuê do chính quyền phát hành, cũng có nghĩa là được quyền thay mặt triều đình quảnlý, bởi vậy không cần phải tranh giành công việc đến đầu rơi máu đổ.
Nói theo ngôn ngữ của dân Thanh Bang, như vậy gọi là "Lăn lộn trong nướcsạch". Toàn bộ việc bốc xếp bên bờ bắc của con sông đào đều nằm trongtay quân cửu vạn của hắn ta. Về sau hắn đến huyện Ninh Hà mua danh bántước, bỏ ra tiền mua chức Huyện thái gia, Ninh Hà là tên một huyện thuộc Thiên Tân. Thời ấy có câu nói "Kim Bảo Để, ngân Võ Thanh, không nhiềubằng một lần năm canh của Ninh Hà", câu này thật ra không phải muốn ámchỉ vào lúc canh năm tối trời có thể đào được bảo vật ở huyện Ninh Hà, mà có nghĩa là cho dù huyện Bảo Để huyện Võ Thanh có tốt đến mấy, quảnlý đến cả trăm ngàn cái thôn, làm quan huyện ở hai nơi này cũng có thểcoi là chức vụ béo bở, nhưng vẫn không thể kiếm nhiều tiền bằng làm quan huyện ở huyện Ninh Hà một ngày. Nguyên nhân chính là bởi vì Ninh Hà làm ra muối, khắp nơi nơi đâu cũng là tiền. Làm quan huyện ở Ninh Hà béođến mức chảy mỡ, chỉ riêng tiền hối lộ của đám thương nhân đã thu mỏitay. Để thu phục nhân tâm, vị quan tiền nhiệm của Lý Diên Chương đã thắp hương thề trong miếu, tuyên bố nhất định sẽ làm quan thanh liêm, tuyệtkhông tham ô nhận hối lộ, tay trái nhận tiền sẽ thối rữa tay trái, tayphải nhận tiền sẽ thối rữa tay phải. Nhưng đến khi nhậm chức, kẻ này đãsinh ra hối hận, nhớ tới lời thề độc địa đã phát ra, không thể dùng đưatay ra nhận tiền, nhưng không có tiền thì còn khó chịu hơn cả bị rữa nát bàn tay. Bởi vậy, kẻ này bèn dùng khay trà để nhận tiền, nếu có thốirữa thì chỉ cái khay trà phải chịu. Thời trước, hắn ta là kẻ nghèo cùngquẫn, loại người này một khi đắc thế sẽ vơ vét tiền của phi nghĩa, quánửa là sẽ trở nên vi phú bất nhân (làm giàu thì thường không có nhânđức), càng nhiều tiền càng thấy thiếu, dùng hết mọi thủ đoạn để vơ vétcủa cải, bị người ta đặt cho biệt danh là Quát Địa Hổ(5). Sau khi đếnhuyện Ninh Hà, hắn ta giàu có đến mức nứt đố đổ vách, có tiền rồi đươngnhiên là muốn mua sắm của cải phòng ốc đất đai. Hắn ta nghe nói ở HàĐông có một nơi gọi là lầu Lý Công(6). Trên thực tế, vị Lý Công đó chẳng có quan hệ dây mơ rễ má gì với hắn ta. Hắn ta bắt đầu lập nghiệp bằngnghề khuân vác thuê, hễ nhắc tới là thấy khó nghe, dù có tiền vẫn bịngười khác coi thường, cho nên lúc nào cũng muốn thếp vàng lên mặt chính mình. Hắn ta cảm thấy cách xưng hô Lý Công này rất kêu, coi như thuậnthế bò lên trên, cho nên cũng muốn làm Lý Công.
(5)Ý muốn chửi là loài cầm thú ăn tục, không chừa bất cứ cái gì
(6)Người Trung Quốc thêm Công vào sau họ người nào đó để tỏ ý kính trọng
Lý Công được tôn vinh ở lầu Lý Công là một vị quan viên quản lýđường thủy thời nhà Thanh. Ông này có công tìm được một tòa lầu nhỏ cóphong thuỷ đẹp, bởi vậy tòa lầu đó mới có tên gọi như vậy, đến nay vẫnđược gọi là lầu Lý Công. Vào cuối thời nhà Thanh, những thương gia buônbán giàu có của Thiên Tân vệ đều xây dựng nhà tứ hợp viện ở khu vực lầuLý Công để ở. Buôn bán quan trọng nhất là dĩ hòa vi quý phát tài, thường xuyên quyên tặng bố thí, bởi vậy nơi đó đã trở thành vùng đứng đầu vềlàm việc thiện.
Lý Diên Chương cho rằng chỉ cần đến ở khu lầu Lý Công là mình có biến thành Lý Công. Nhà giàu mới nổi nào cũng có tâm lý tự tinhư vậy. Hắn ta bỏ tiền mua lại toàn bộ vùng đất đó, những vẫn lo chưađủ lớn bởi vậy mấy cái thôn cạnh đó cũng bị hắn ta mua luôn. Nói là mua, nhưng thực ra là cướp đoạt bằng mọi thủ đoạn, bởi vậy hắn ta cũng chẳng phải bỏ ra bao nhiêu tiền. Giữa khu vực đó có vài khu nghĩa địa, toànbộ mộ phần ở những nghĩa địa đó đều là mộ cổ từ mấy trăm năm trước, chủnhân của những ngôi mộ này đa phần là người nghèo. Bởi vì thời gian đãquá lâu, hầu như không thể xác định được con cháu của họ là ai, mộ phầnđã biến thành mộ hoang vô chủ, ngay cả dân trộm mộ cũng không thèm ngóngàng gì đến, bởi vì trong quan tài chỉ có xương cốt người chết, may mắn lắm thì mới vớ được một hai đồng tiền cổ áp mắt người chết (7), thật sự chẳng có chút béo bổ nào. Theo ý định ban đầu của Lý Diên Chương, cứvứt bừa quan tài xuống những cái hủng ở nơi hoang vắng là xong chuyện, thế nhưng lại sợ việc đó làm hỏng danh tiếng của mình, khiến cho ngườita có cớ chửi bới sau lưng, không thể nào rước lấy tai tiếng đó được. Nhưng hắn lại không muốn tốn nhiều tiền, làm cách nào bây giờ? Con ngươi đảo một vòng, Quát Địa Hổ nảy ra một ý hay. Phía sau miếu Tam Nghĩa làmột cái hủng chuyên vứt xác vô chủ, chứa rất nhiều thi thể của nhữngngười chết ven đường không ai thu nhặt. Hắn ta sai người di chuyển toànbộ quan tài dưới những ngôi mộ cổ đến cái hủng ở sau ngôi miếu, rồi dùng gạch có ghi số bên trên để đánh dấu phần mộ của nhà nào ra nhà đấy, tổng cộng có hơn hai trăm chiếc quan tài. Hắn bảo rằng đợi đến khi nàotìm được một nơi có phong thuỷ tốt sẽ chôn lại, nhưng trên thực tế thìcứ bỏ mặc như vậy. Lý Diên Chương làm như vậy đã bị tổn hại rất nhiều âm đức, đương nhiên là sẽ không có kết cục tốt lành. Sau khi di dời mộkhông lâu, khi hắn ta đi ngang qua bến tàu kênh đào, trong lúc người tađang cẩu hàng hóa, một chiếc hòm gỗ đang được cẩu giữa không trung độtnhiên rơi xuống, tức khắc đập Lý Diên Chương nát thành muôn vàn đóa hoamáu đỏ rực, đầu nát bét, dù có mời nghệ nhân đóng giày cao tay đến cũngkhông thể chắp lại được như cũ. Cuối cùng, đến khi đóng nắp quan tài đểhạ táng, bên trong quan tài là một thi thể không đầu, dùng gỗ trầm hương đẽo thành đầu người để thay thế.
(7)Theo quan niệm mê tín của Trung Quốc, người ta đặt hai đồng tiền lênmắt người chết để người này trả tiền cho người chèo đò khi qua sông NạiHà.
Sau khi Lý Diên Chương chết, cái hủng sau miếu Tam Nghĩa được quanphủ lấp đất qua loa. Nơi này vắng vẻ, hiếm khi có người xuất hiện, mọingười hầu như đã quên bẵng đằng sau miếu Tam Nghĩa còn có một cái hủngchôn người lớn như vậy. Trải qua vài chục năm dầm mưa dãi nắng, đất phủtrên quan tài càng ngày càng lún xuống, khiến cho đám quan tài dưới hốchôn người sau miếu Tam Nghĩa chồi lên mặt đất nằm bừa bãi ngổn ngang.
Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenhay.pro.vn để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!