Sau khi Kỳ Anh mất Tích Nhân thương nhớ không nguôi, tất cả những hình ảnh của nàng, dù lức Kỳ Anh cả người lông lá không khác khỉ vượn, đến khi trở về với hình dạng thực sự trông như mới trên hai mươi xinh đẹp tuyệt trần, Tích Nhân đều thấy thân thương yêu quí vô cùng. Hắn không muốn rời bỏ nơi nhiều kỷ niệm này, nên vẫn tiếp tục ở lại và vâng lời Kỳ Anh hàng ngày nghiên cứu thêm kiếm chiêu, quyền pháp từ những bí lục nàng lưu lại.
Mấy tháng sau, Tích Nhân thấy rằng đi đâu ở đâu hắn cũng không thể quên Kỳ Anh, như vậy tại sao phải ở mãi trong đáy vực? Hắn có những bổn phận mà người mẹ hiền trước khi chết trông cậy. Hắn cũng phải làm những gì mà Kỳ Anh đã mong mỏi ở hắn trước khi mất nữa chứ? Vào một buổi chiều, Tích Nhân nói lời giã biệt bạch ưng, con vật như cũng hiểu ý, sáng hôm sau nó không rời thung lũng sớm như thường lệ. Khi hắn vào thạch động đẩy hòn đá to lấy Phượng hoàng ngọc lệnh, và ít châu ngọc phòng thân, đu dây lên vực đá, bạch ưng bay theo vần vũ trên đầu. Vì không biết đang ở đâu, nhưng nhớ trước đây Kỳ Anh đưa đi hướng tây bắc, bây giờ Tích Nhân xuống núi nhắm hướng đông nam, bạch ưng lại đáp xuống cắn áo hắn. Mấy lần như vậy, Tích Nhân hỏi:
- Phải chăng tiểu ưng muốn đưa ta đi đâu? Nếu vậy cứ bay thấp dẫn đường.
Bạch ưng đảo một vòng rồi là nhắm hướng nam bay đi. Tích Nhân chạy theo. Đây là vùng núi cao chớn chở, sườn núi có khi thẳng đứng, liên tiếp chập chùng. Chim ưng bay trên không, nhưng Tích Nhân đi dưới đất, dù khinh công có thể phi qua bờ bụi, phóng qua gộp đá, nhưng lên xuống một ngọn núi cũng mất khá lâu. Bạch ưng tiếp tục vần vũ chờ hắn. Mãi đến chiều đến một thung lũng nhỏ, cỏ xanh mơn mởn, suối chảy róc rách, thông reo, én liệng, hươu nai từng bầy, cảnh sắc rất đẹp.
Bạch ưng bay lên một ngọn đồi, Tích Nhân chạy lên theo, thấy đỉnh đồi bằng phẳng, ở giữa đỉnh có một gian nhà gỗ nhỏ đã hoang tàn, dây leo che phủ. Bạch ưng đậu trên mái nhà. Tích Nhân xô cánh cửa, và chờ đợi giây lát cho mùi xú uế bay tản mới bước vào. Aùnh sáng lờ mờ trong căn nhà cho Tích Nhân thấy trong nhà nhện giăng kín, trên chiếc bàn gỗ đóng kín bốn phía như cái tủ ở giữa nhà để một cái hộp đen dài. Bên trong, sát vách, trên bộ ván một cụ già mặc bạch bào đang ngồi nhắm mắt theo tư thế tọa thiền, ngoài ra không có gì cả.
Tích Nhân cung kính vòng tay:
- Xin kính chào tiền bối.
Cụ già không lên tiếng. Tích Nhân chào lần thứ hai cụ già cũng không trả lời. Nhìn nhện giăng khắp nơi, lắng nghe cụ già không có hơi thở. Tích Nhân biết cụ già có lẽ là chủ nhân của bạch ưng và đã chết từ lâu. Với bạch ưng, mấy tháng nay Tích Nhân xem nó không khác gì bạn của mình nên nên quỳ gối dập đầu cung kính:
- Không biết tiền bối đã qui tiên, mở cửa xúc phạm làm động đến di thể xin tiền bối tha thứ.
Tích Nhân lạy đến lạy thứ ba, những tiếng lè xè bỗng vang lên, chiếc hộp đen trên bàn di chuyển từ từ lên cao, và phía dưới một cái hộp đen khác được nâng lên, và chiếc hộp đen chợt bị đẩy nhanh ra ngoài, gần mép bàn. Trên đầu hộp có mảnh giấy nhỏ: " Hài tử! Hộp này tặng ngươi".
Tích Nhân nâng chiếc hộp lên thấy nhẹ nhàng, mở ra xem, bên trong có chiếc áo đen đệt bằng một thứ tơ đặc biệt, rờ tay lên thấy mát lạnh, một hạt châu, một cây trủy thủ đen nặng chình chịch, một quyển sách dày với một phong thư:
"Ta là Trương Thái Thanh, giáo chủ đời thứ mười hai Ngũ độc giáo. Ngũ độc giáo nổi tiếng giang hồ, nhưng chuyên dùng độc, còn võ công chân chính thì thua xa các võ phái ở Trung Nguyên. Ta rất khó chịu vì việc này, vì thế để công tìm tòi mong sáng chế cho Ngũ độc giáo một môn võ công đặc biệt. Một hôm dạo chơi ở hồ Động đình ta thấy giống chim ưng bay liệng bắt cá, thân pháp, móng vuốt kỳ ảo vô cùng.
Chim ưng đã thu hút ta, vì thế sau đó cho người tìm chim ưng đem về nuôi, tập luyện cho thân quen, rồi hàng ngày nghiên cứu thân pháp của chúng. Ta say mê nghiên cứu võ công từ chim ưng, không muốn bị ai quấy nhiễu nên ở riêng một mình, quên hết công việc của Ngũ độc giáo và người vợ trẻ, kém hơn ta gần ba chục tuổi và mới có đứa con thôi nôi. Sau năm năm ta sáng chế được một bộ trảo pháp đặt tên là thiên ưng trảo, và một bộ khinh công đặt tên Thiên ưng phi đằng. Ta vui mừng từ nơi ẩn cư trở về Ngũ độc giáo để khoe với Tần Giáng Tiên, vợ ta và mọi người. Ta dùng khinh công thiên ưng phi đằng trở về trong đêm, khinh công của ta đã qua tất cả những trạm canh mà cao thủ bản giáo không ai phát giác được. Hỡi ôi! Vì thế mà ta chứng kiến cảnh đau lòng. Giáng Tiên mà ta tưởng đang chờ mong, sẽ bất ngờ vui mừng ngày trùng phùng và sự thành tựu của ta, thì nàng đang trong vòng tay sư đệ ta. Ta muốn giết chúng, nhưng nghĩ lại ta đã bỏ đi quá lâu, ta cũng có lỗi và chắc chắn đứa con gái của ta sau này biết ta giết mẹ nó cũng sẽ vô cùng đau khổ. Vì thế, ta đã âm thầm ra đi. Ta đến chỗ này, thấy cảnh sắc rất đẹp nên quyết định ẩn cư và thề không bao giờ trở về Trung nguyên nữa. Hơn mười năm, để quên đời, ta chú tâm nghiền ngẫm võ công, lại thấy thiên nhiên là thầy dạy võ công siêu việt nhất trên đời. Không có sức mạnh nào bằng sức mạnh của gió bão, gió bão có thể xô ngã cây to, cành lớn, nhưng không thể làm ngã cộng cỏ non. Không có sức mạnh nào như thác, nhưng thác không làm sứt mẻ bờ đá. Không có gì cứng như đá, nhưng đá lại bị nước xoi mòn.. Cái lý nhu cương thật khó lường, cương có thể thắng nhu nhưng nhu cũng có thể thắng cương. Ta cũng nghiền ngẫm, đối chiếu võ công của các môn phái, từ quyền chưởng đến binh khí ta lại thấy hoa dạng, rườm rà có khác nhau, nhưng rút lại thì căn bản cương hay nhu cũng giống nhau. Chiêu thức càng bỏ bớt huê dạng càng là chiêu thức độc đáo. Thiên ưng trảo của ta sáng chế từ bảy mươi hai đường, dần dần rút xuống, và cuối cùng ta thấy rằng nếu tâm ta thanh tĩnh, đứng trước kẻ thù dữ coi như trẻ con, trước gió lớn không ngại, trước lửa dữ không màng, chiêu thức tùy tâm mà phát, tùy cương, tùy nhu, ra chiêu mà vô chiêu, hữu thức mà vô thức, tùy ý, tùy tâm mới là tuyệt chiêu, tuyệt thức, bất bại trước mọi địch thủ. Ta nghiền ngẫm và giác ngộ đến đây, thì ta cũng biết ngày giờ tọa hóa đã đến, viết thư này cho kẻ hữu duyên. Quyển sách để lại, tất cả là hình vẽ. Ta vẽ từ bảy hai đường thiên ưng trảo lúc ban đầu và cuối cùng đi đến một tư thế duy nhất tùy ngươi lấy đó mà suy gẫm. Chút máy móc để lại chỉ để thử xem ngươi là người có đức độ hay không mà thôi. Chiếc áo kim ty thiên tầm có thể hộ mạng vì đao kiếm tầm thường không thể làm rách. Hạt châu là hùng hoàng châu, người mang nó có thể tỵ bách độc. Cây ngũ độc thần trủy thân năm sắc, chém sắt như chém bùn, đã tẩm hàng trăm chất độc khác nhau và ta đã trừ bỏ hết chất độc trên đó. Ba vật này đều là bảo vật trấn sơn của Ngũ độc giáo. Sau này nếu ngươi gặp con gái ta, thấy nó là người có thể giáo hóa, giác ngộ, có thể cải biến Ngũ độc giáo từ một tổ chức tội ác thành một tập thể hành thiện, thì truyền giùm võ nghệ của ta cho nó, nói cho nó biết tại sao ta ra đi, giao ba bảo vật cho nó, và giúp nó thực hiện tâm ý của người cha chưa bao giờ thấy mặt. Nếu con ta không phải là người có thể làm việc này, hay quá ác độc thì ngươi hãy dùng tam bảo và võ công của ta giải tán Ngũ độc thần giáo. Sau khi ngươi lấy hộp này hãy dùng lửa hỏa thiêu căn nhà và thân xác của ta."
Tích Nhân đọc lá thư di lưu của Trương Thái Thanh, cúi lạy ông ba lạy:
- Vãn bối đã có duyên gặp gỡ, nguyện sẽ làm theo những gì mà tiền bối căn dặn.
Cất những vật được tặng, ra ngoài, Tích Nhân vận công lực thành lửa đốt căn nhà gỗ. Khi ngọn lửa đang bốc cháy mạnh, bạch ưng đang bay vần vũ trên trời kêu một tiếng bi ai, rồi đâm đầu xuống như sao sa. Tích Nhân không ngờ bạch ưng thông linh và trung thành với chủ như vậy, thương tiếc vô cùng.
Rời đỉnh đồi xuống bờ suối, Tích Nhân hái ít trái rừng ăn đỡ đói, lấy chiếc áo thiên ty mặc thử rất vừa vặn với mình và thấy trời đã tối bèn đốt lửa đem sách Trương thái Thanh lưu lại lật xem.
Hình vẽ và bị chú của tập bí kíp hấp dẫn ngay Tích Nhân. Hắn vừa cầm sách vừa luyện thử. Hôm sau, tiếp tục tập luyện theo bộ bí kíp, khi đã thuần thục chưởng pháp và khinh thân Phi ưng, hắn lại nghiền ngẫm đến những lời Thái Thanh về sức mạnh thiên nhiên, lý lẽ cương nhu trong trời đất. Vốn đã học qua rất nhiều thứ võ công từ những bí lục của Kỳ Anh và Đằng tiên bí kíp của mình, Tích Nhân hàng ngày ngồi yên, hay phân tích tìm ra chỗ hay chỗ dở của các môn võ, trong mấy tháng có nhiều ngày Tích Nhân quên ăn quên ngủ, có khi trời mưa như trút vẫn ngồi bất động, nhưng cũng chỉ nhận thấy được những chỗ cao siêu, những chỗ rườm rà của các thứ võ công mà không thể nào thấu đạt đến trình độ vô chiêu, vô thức. Một hôm Tích Nhân nghĩ rằng đây cũng chỉ là chỗ mà Trương thái Thanh suy nghĩ mà thôi, chưa hẳn ông ta đã làm được trong mười năm nghiên cứu, thì hắn cũng không thể nào ở mãi giữa chốn núi rừng này. Sau khi nghĩ như vậy, Tích Nhân vái lạy nơi hỏa thiêu di thể Trương Thái Thanh, rời thung lũng. Với khinh công thiên ưng phi đằng, Tích Nhân thấy lên núi, xuống núi dễ dàng hơn, có thể để thân hình rơi từ vài ba trượng trên cao xuống bên dưới, cho dù ở giữa vách đá cheo leo cũng có thể lấy lại thăng bằng dễ dàng. Vừa đi, vừa ngắm đồi núi mênh mông, vừa thực tập thiên ưng phi đằng, chiều hôm ấy, khi băng qua một dãy núi cao, Tích Nhân nhìn xuống phía trước mặt thấy một bản làng, khoảng vài chục căn nhà sàn. Mấy năm côi cút một thân một mình trong rừng núi, gặp bản làng đầu tiên, nhìn thấy những căn nhà, từ các mái tranh nâu những làn khói lam toả lan ôm ấp, Tích Nhân cảm thấy như đang được hít thở một thứ sinh khí kỳ diệu của cuộc sống, của con người, và cảm thấy thèm được tiếp xúc, được nghe tiếng nói người khác, và cũng thèm một chén cơm, một chén trà nóng vô cùng. Hơn nữa, nghĩ mình cũng cần phải hỏi thăm đường để biết đang ở đâu, Tích Nhân dùng khinh công xuống núi, tiến vào bản. Đây là một bản nhỏ nằm trong một vùng thung lũng núi non bao bọc, dù mùa đông cảnh sắc xinh đẹp lạ thường. Những căn nhà sàn lợp tranh, nằm e ấp dọc theo sườn núi thông trúc xanh rì. Chạy quanh chân núi là con suối nhỏ, rải rác có những chiếc cầu gỗ bắc ngang. Giữa thung lũng là một hồ nước độ vài mẫu, lấp lánh như gương. Bên bờ cỏ xanh mướt, trâu bò, lừa, ngựa thung dung gặm cỏ. Năm ba đứa nhỏ chạy đuổi nô đùa. Xuống đến chân núi, Tích Nhân phải băng qua một cánh đồng cỏ mới đến được phía bản làng. Có lẽ thân thể cao to của hắn nổi bật lên giữa cánh đồng, được những đứa trẻ nô đùa chú ý, chúng chạy vội về nhà, vừa chạy vừa la, và phút chốc tiếng cồng, tiếng trống vang lên dồn dập. Khi Tích Nhân đến gần bờ suối, từ trong những căn nhà, đàn ông, đàn bà, kẻ vác gậy, người cầm liêm ba, đủ loại vũ khí túa ra như sắp lâm trận. Tích Nhân ngạc nhiên vì từ lâu cũng biết các sắc dân miền núi rất hiếu khách, không hiểu tại sao mình mới đến nơi họ lại hung hăng như vậy?
Người dân trong bản túa ra, nhảy qua suối, bao lấy hắn thành một vòng tròn, Tích Nhân cung tay:
- Tại hạ mới đến đây chẳng hay đã đắc tội gì với quý vị?
Đám đông bật lên nhiều tiếng la mắng:
- Ngươi là đồng bọn của lũ giết người..!!
Trong lúc mọi người ồn ào, thì có tiếng đằng hắn, từ phía sau mọi người rẽ ra, nhường chỗ cho một cụ già độ bảy tám chục tuổi, một cô gái, và một thiếu niên bước vào. Cụ già thân hình to cao, ba chòm râu bạc trắng làm nổi bậc khuôn mặt ngâm đen, rắn rỏi, cặp mắt sáng quắc. Oâng cụ cầm trên tay một cây trường côn. Cô gái đi bên trái độ mười bảy mười tám, gọn ghẽ trong bộ võ phục màu xanh, đội khăn đen.
Bộ võ phục ôm gọn vóc dáng cân đối, Chiếc khăn đen làm nổi bậc làn da trắng nuốt, và đôi mắt to đen, xinh đẹp tuyệt vời. Có lẽ ngoài Trần Kỳ Anh, Tích Nhân chưa gặp cô gái nào xinh đẹp như cô ta. Cô gái tay cầm kiếm. Thiếu niên như cụ già cầm một cây côn. Thiếu niên trông rất phương phi, mày thanh mắt sáng.
Tích Nhân nghĩ cụ già có lẽ là bản trưởng nên lại vòng tay:
- Vãn bối là Lê Tích Nhân, tình cờ đi ngang qua đây muốn xin nhờ bữa cơm chiều và hỏi thăm đường, không hiểu có sự hiểu lầm nào mà mọi người xem vãn bối như kẻ tử thù?
Oâng lão chăm chú nhìn Tích Nhân, hỏi:
- Ngươi từ đâu đến?
Tích Nhân làm sao biết mình ở địa phương nào nên chỉ lấy tay chỉ:
- Từ phía tây bắc tới.
Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenhay.pro.vn để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!