Chương 1: Cậu bé lạc loài

Thành Thăng Long trong mùa đông u ám năm nay đã nhận lấy cái tên mới là Đông đô, những gia đình quan lại, lính tráng thu hút sức mua bán lớn nhất của Thăng Long người đi kẻ ở, lo lắng, hoang mang. Biến đổi lớn lao này đã làm mọi người, ngay cả những nhân công, đầu bếp, hầu bàn của quán Tư Bụng cũng uể oải hẳn ra. Thường thì gà gáy sáng, trong quán đã lên đèn khắp nơi, chuẩn bị mở đầu cho một ngày làm việc mới, và trời chưa sáng, những kẻ không nhà ngủ nhờ nơi hàng hiên đã bị xua đuổi đi nơi khác.

Nhưng mấy ngày qua, trời sáng hẳn công nhân quán Tư Bụng mới rục rịch mở cửa và những kẻ có nhiệm vụ kê bàn chung quanh ba hàng hiên dài không cần phải xua đuổi ai, những người có kiếp sống khốn khổ này đã thức giấc, tự động thu vén để ra đường cho một ngày mới của mình. Sáng hôm ấy, gió bấc từ dòng sông thổi lên lạnh như cắt da xé thịt, quán Tư Bụng còn mở cửa trễ hơn, nhưng khi Trần Tứ người công nhân trẻ bày bàn ghế ở hiên tây đã ngạc nhiên thấy một người còn nằm trong chiếc chăn rách nát, hắn bực bội lấy chân đá mạnh quát tháo:

- Mặt trời đã lên còn nằm vạ hay sao?

Cái đá mạnh không làm người trong chăn nhúc nhích. Trần Tứ thêm bực bội cúi xuống giựt mạnh chiếc chăn, hắn thấy dưới nền nhà thân hình ốm o, tóc xõa che kín mặt mày nằm bất động, hắn đá vào chân người nằm mấy cái nữa vẫn không thấy nhúc nhích. Trần Tư chăm chú nhìn làm da xanh mét qua lớp áo rách rồi hốt hoảng chạy vào trong kêu réo:

- Có người chết ngoài hàng hiên! Có người chết!

Nghe hô hoán vài người công nhân trong quán vội vã bước ra. Họ xúm lại nhìn xác chết, nhưng không biết phải làm gì. Một người đàn bà lên tiếng:

- Chắc bị chết cóng! Tội nghiệp quá! Chạy kêu Đoàn tổng quản xem ông dạy làm thế nào? Nó đã lỡ nằm chết ở đây chúng ta đâu có thể mang đi ném chỗ nào cho được! Dù sao cũng là con người mà!

Trần Tứ vội chạy đi kêu lão tổng quản, người thay mặt chủ nhân điều hành quán Tư Bụng. Trần Tứ mới khuất vào bên trong, trước cổng quán xuất hiện một cỗ kiệu màu xanh. Thấy cỗ kiệu, người đàn bà kêu lên:

- May quá! Chủ nhân đến kìa!

Phạm tiên sinh khoảng năm sáu mươi, râu ba chòm lốm đốm bạc, mặc áo lụa đen, chống cây gậy mây đen bóng loáng, bước xuống kiệu, mau mắn:

- Thím Năm! Việc gì đó?

- Thưa tiên sinh, có người nằm chết cóng ở đây!

Phạm tiên sinh không chút hốt hoảng:

- Ồ! Tội nghiệp nhỉ!

Ông ta bước vội vào hàng hiên, những người công nhân giãn ra nhường chỗ cho chủ nhân. Nhìn kẻ bạc phước nằm co rút trên manh chiếu rách, áo quần te tua không che kín thân thể, Phạm tiên sinh thở dài. Ông định ra lệnh cho công nhân mua một chiếc hồm cho xác chết, tống táng làm phước, nhưng đôi mắt ông ta chợt nhìn thấy nằm dài theo xác chết một cây gậy mây dài hơn hai thước, quấn vải chung quanh như cố tình che dấu, nhưng lớp vải đang bong rời ra cho thấy đấy là một cây gậy mây to hơn ngón chân cái, lóng rất ngắn, mỗi lóng chỉ độ vài đốt ngón tay, nổi màu đen bóng, nhưng cũng có nhiều vết như bị gươm đao chém phải. Cây gậy làm Phạm tiên sinh cau mày, rồi vội ngồi xuống lật xác chết lên đưa tay sờ mũi, sờ ngực. Được Phạm tiên sinh lật qua, mọi người mới thấy xác chết là một thiếu niên độ mười sáu, mười bảy tuổi và họ cũng rất ngạc nhiên, Phạm tiên sinh không nề dơ bẩn, rút cây gậy để lên người thiếu niên rồi bồng ngay lên và nôn nóng hỏi đám công nhân:

- Ai trong các ngươi nhà có căn phòng trống?

Trần Tứ lanh miệng:

- Nhà thím Năm có phòng cô Lan mới về quê.

Không chờ người đàn bà cho biết có đồng ý hay không, Phạm tiên Sinh bước đi ngay và hối người đàn bà:

- Thím đi theo chỉ cho ta căn phòng ấy còn các ngươi thì vào trong kêu người nấu ngay một tô cháo nóng, cho gừng nhiều vào và mang gấp đến cho ta.

Nghe chủ sai khiến, người đàn bà hơi một chút ngần ngừ rồi bôn bả chạy theo và vượt qua mặt Phạm tiên sinh. Khu nhà ở của công nhân quán Tư Bụng mái tranh vách đất, nhưng có mấy chục căn như một xóm nhỏ, nằm sau sân tửu quán, ngăn cách bởi một hàng dương liễu xanh và ra vào có một cánh cổng cây nặng nề. Mụ Năm xăn xái chạy trước chủ nhân, vì ta ta biết mình phải mở cánh cổng này cho ông chủ và đưa ông ta đến căn nhà mình, một căn nhà hẻo lánh nằm sau bờ ao của khu dành riêng cho nữ nhân, lại cũng có một hàng dậu tre và một cánh cổng phân biệt với khu nam nhân và người có gia đình.

Mụ Năm vừa đi vừa chạy, vì Phạm tiên sinh bồng thiếu niên đi rất nhanh. Khi đến căn nhà của mình, mụ đã thở hào hễn, và rất ngạc nhiên không ngờ Phạm tiên sinh thân thể văn nhược, tuổi đã lớn nhưng bồng một người, đi nhanh như vậy mà không tỏ ra có chút gì mệt nhọc.

Phạm tiên sinh đặt thiếu niên lên chiếc giường gỗ nhỏ, bảo mụ Năm:

- Thím đi đốt cho tôi một chậu lửa than.

Khi mụ Năm đi khỏi, Phạm tiên sinh hít một hơi chân khí, rồi đôi bàn tay bắt đầu chà xát lên thân thể thiếu niên. Một lúc sau gã rên ư ử và mở mắt. Phạm tiên sinh dừng tay mỉm cười thân thiện:

- Cậu đã thoát chết rồi đấy.

Thiếu niên mấp máy môi, thều thào:

- Đa tạ đại bá!

Câu nói văn vẻ của cậu bé làm Phạm tiên sinh cảm thấy những gì mình nghi ngờ là đúng. Ông cầm cây gậy mây để bên cạnh thiếu niên, kéo tấm chăn đắp cho và với giọng chí tình:

- Lão phu chưa biết tiểu hữu là ai, gặp hoàn cảnh hung hiểm nào mà đến nông nổi này, nhưng cứ yên tâm nằm đây tịnh dưỡng cho đến khi khỏe hẳn. Tiểu hữu bị đói lạnh lâu ngày, ngoài ăn uống, cũng phải uống thêm vài thang thuốc nữa mới hoàn toàn bình phục.

Nội dung chương bạn đang xem bị thiếu. Vui lòng truy cập website https://truyenhay.pro.vn để xem nội dung đầy đủ. Cảm ơn bạn đọc!